CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO

35 năm nghiên cứu & phát triển thuốc trừ sâu sinh học Bacillus thuringensis (Bt) tại Việt Nam
35 năm nghiên cứu & phát triển thuốc trừ sâu sinh học Bacillus thuringensis (Bt) tại Việt Nam2 Tháng Tư, 2018Trong 35 năm nghiên cứu và phát triển thuốc trừ sâu sinh học Bacillus thuringensis (Bt) tại Việt Nam nói chung và của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam nói riêng, các nhà khoa học Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong nghiên cứu, sản xuất thuốc trừ sâu sinh học Bt và đưa những kết quả nghiên cứu đó ứng dụng vào đời sống sản xuất, góp phần giảm thiệt hại kinh tế cho ngành nông lâm nghiệp Hơn bốn thập kỷ qua vi khuẩn Bacillus thuringensis được sử dụng trong sản xuất thuốc trừ sâu sinh học để bảo vệ cây trồng nông lâm nghiệp và kiểm soát muỗi – vectơ truyền nhiều bệnh nguy hiểm như sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản, bệnh giun chỉ, bệnh sùi chân voi…. Với những ưu điểm nổi bật so với thuốc trừ sâu hoá học như: không gây ô nhiễm môi trường, không diệt các côn trùng hữu ích và đặc biệt không độc hại đối với con người và môi trường, thuốc trừ sâu sinh học Bt chiếm hơn 90% thị phần thuốc sâu sinh học trên thế giới. Trong tương lai thuốc trừ sâu sinh học Bt và các gen của Bt sẽ được ứng dụng rộng rãi trên thực tế ,đặc biệt là trong công nghệ chuyển gen Bt vào cây trồng. Ở Việt Nam, thuốc trừ sâu sinh học Bt thương mại được ứng dụng đầu tiên tại viện Bảo vệ thực vật năm 1971. Tuy nhiên việc nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng Bt đầu tiên được thực hiện năm 1973 tại Viện Sinh vật, Viện Khoa học Việt Nam, nay là Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Có thể chia lịch sử phát triển thuốc trừ sâu sinh học Bt của Việt Nam thành 3 thời kỳ: i) Thời kỳ mở đầu (1973 – 1983, ii) Thời kỳ sản suất và áp dụng (1984 – 1994) và iii) Thời kỳ nghiên cứu cơ bản, ứng dụng và phát triển (1995 – đến nay). Thời kì mở đầu nghiên cứu (1973-1983) Công bố khoa học về nghiên cứu Bacillus thuringiensis của thời kì này rất ít. Hai công trình của nhóm tác giả Nguyễn Công Bình, Phạm Bá Nhạ, Ngô Đình Bính là những công trình đầu tiên nghiên cứu Bt tại Việt Nam. Năm 1973 sản xuất Bt bằng phương pháp thủ công và bán công nghiệp, những nghiên cứu về sản xuất chế phẩm Bt được thực hiện tại Viện Sinh Vật (nay là Viện Công nghệ sinh học). Trong thời kì 1973-76, chủ yếu sản xuất trên môi trường đặc với giá thể là agar tự chế tạo từ rong câu. Các nguyên liệu khác sẵn có trong nước như bã khô lạc, bột đậu tương, bột cá đã được nghiên cứu sử  dụng. Các chủng giống Bt lúc đó là dưới loài  Bacillus thuringiensis subsp. thuringiensis và B. thuringiensis subsp. kurstaki. Các chế phẩm Bt sản xuất bằng phương pháp thủ công này đã được sử dụng cho vùng rau ngoại thành Hà Nội. Hiệu quả diệt sâu của chế phẩm Bt tự sản xuất rất tốt  và đã có tiếng vang lớn lúc đó. Vì vậy sau giải phóng miền Nam 1975, đề tài sản xuất Bt được  lựa chọn là một trong những kết quả khoa học thực nghiệm đầu tiên của miền Bắc đưa vào phát triển ở miền Nam. Tại phòng Sinh học thực nghiệm (nay là Viện Sinh học Nhiệt đới) thuộc Phân viện Viện Khoa học Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, công nghệ sản xuất Bt đã tiến thêm một bước mới, chế phẩm Bt được sản xuất bằng phương pháp lên men chìm trong nồi lên men tự chế tạo. Sau đó công nghệ sản xuất được triển khai áp dụng tại công ty Thanh Sơn thành phố Hồ Chi Minh với quy mô lên men 3 m3/mẻ. Chế phẩm sản xuất ở Công ty này được đánh giá tại Bộ môn Bảo vệ Thực vật, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội và tại Trại ươm rau giống, Ty Nông nghiệp, tỉnh Lâm Đồng. Trên cơ sở những kết quả đạt được đó, năm 1982 Ban Khoa học kĩ thuật Hà Nội (nay là Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nội) và Chương trình Sinh học phục vụ nông nghiệp của Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) đã cho phép đề tài triển khai sản xuất tại Viện Công nghiệp Thực phẩm trong nồi lên men chìm dung tích 5 m3. Chế phẩm dạng dịch thể sản xuất tại đây được dùng phòng trừ sâu hại rau tại các vùng rau ngoại thành Hà Nội. Để nâng cao hoạt tính và thời gian bảo quản chế phẩm, các tác giả đã kết hợp với Tổng cục Hoá chất thử nghiệm công nghệ thu hồi sản phẩm bằng máy sấy phun tại Cầu Diễn. Tuy nhiên do nhiều hạn chế về kĩ thuật lúc đó, hiệu suất thu hồi thấp, bào tử bị chết nhiều và hoạt tính bị giảm đáng kể. Thời kì sản xuất và áp dụng (1984-1994) Tư liệu về thời kì này hầu như không có. Mặc dù đề tài triển khai của nhóm Nguyễn Công Bình đã kết thúc, nhưng các chế phẩm Bt sản xuất theo phương pháp lên men dịch thể được áp dụng rộng rãi, có hiệu quả phòng trừ rất rõ rệt, hơn nữa giá bán không cao (khoảng 6000 đồng/lít) nên hợp với thu nhập của nông dân. Chế phẩm Bt có hiệu quả diệt sâu tơ mạnh, trong khi loại sâu này lại kháng với thuốc trừ sâu hoá học. Điều đó khiến nông dân thích dùng thuốc trừ sâu Bt hơn. Một số đơn vị thuộc một số trường đại học và cơ sở triển khai nhỏ đề xuất và phát triển phương pháp lên men hở không cần vô trùng, tạo chế phẩm Bt phục vụ trực tiếp cho các vùng trồng rau. Do kĩ thuật sản xuất thủ công, thô sơ lại chạy theo sản phẩm “ăn liền” nên hiện tượng nhiễm trùng và đặc biệt là nhiễm thực khuẩn thể (Bacteriophage) không thể khắc phục được. Số lượng bào tử, tinh thể trong các mẻ lên men không đạt yêu cầu tối thiểu nên hiệu quả diệt sâu của chế phẩm Bt sản xuất lúc đó rất thấp, thậm chí không có hiệu quả. Thời kì nghiên cứu cơ bản, ứng dụng và phát triển (1995 – đến nay) Cuối thời kì sản xuất và ứng dụng 1984-1994, chế phẩm Bt kém chất lượng, không tiêu thụ được, một số cơ sở phải đóng cửa và chuyển sang sản xuất các loại hàng hoá khác. Sản xuất và ứng dụng Bt bước vào thời kỳ thoái trào, các nhà khoa học phải quay lại nghiên cứu cơ bản để hiểu biết về bản chất phân tử, cơ chế diệt sâu của protein tinh thể phục vụ cho xây dựng công nghệ sản xuất, đặc biệt là công nghệ nền và cho cơ sở ứng dụng. Trong thời kỳ này, các tư liệu về nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng Bt rất phong phú, đã được công bố, đặc biệt là trong 10 năm gần đây. Các công trình tập trung vào các nội dung chính như sự phân bố và đa dạng sinh học của các chủng Bt phân lập tại Việt Nam; các đặc tính phân tử của Bt; nghiên cứu tạo các vectơ mang gen cry chuyển vào cây trồng; và các nghiên cứu sản xuất chế phẩm Bt ứng dụng trong bảo vệ cây trồng và phòng chống các vectơ truyền bệnh trong bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Có thể nói, đây là thời kỳ phát triển mạnh về chất của công nghệ sinh học Bacillus huringiensis của Việt Nam, đã hội nhập được với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và thế giới. Hiện nay, Bộ sưu tập Bacillus thuringiensis (VBtC) của Việt Nam là một trong những bộ sưu tập lớn nhất trên thế giới với hơn 3500 chủng phân lập tại Việt Nam, trong đó có 114 chủng kháng nguyên chuẩn quốc tế dùng cho sản xuất 78 kit huyết thanh cho phân loại. Qua so sánh với các chủng Bt trên thế giới, các chủng Bt của Việt Nam rất đa dạng về cấu trúc tinh thể độc tố (hình tháp chiếm 63,1%, hình cầu 11,2%, hình khối lập phương 4,8%…), đa dạng về typ huyết thanh, và đặc biệt đa dạng về gen mã hóa protein diệt côn trùng cánh vẩy (Lepidoptera), cánh cứng (Coleoptera), hai cánh (Diptera), diệt tuyến trùng hại cây nông lâm công nghiệp, diệt tế bào ung thư người…. Trong đó, gen cry1(cry1Aa, cry1Ab, cry1Ac, cry1B, cry1C, cry1E, cry1F) chiếm 57 %, cry2 – 5%, cry4 (cry4A, cry4B) – 43%, cry8 – 8%. Ngoài ra, các gen cyt, gen Vip, gen parasporin cũng được phát hiện trong khoảng 1- 5 %. Sản xuất thuốc trừ sâu sinh học Bt dạng bột thấm ướt và chế phẩm Bt thế hệ mới  Chế phẩm Bt dạng bột thấm ướt Trước 1993 do thiếu thiết bị thu hồi, máy sấy phun nên không sản xuất được Bt dạng bột. Từ năm 1994, Viện Công nghệ Sinh học đã được trang bị hệ thống lên men chìm đồng bộ của hãng New Brunswick (Hoa Kỳ) với các nồi lên men dung tích 5,6l, 20l và 80l. Các thiết bị cho thu hồi sản phẩm (Giai đoạn sau lên men) gồm có các loại ly tâm khác nhau, máy sấy phun và các loại tủ sấy. Với thiết bị hiện đại này, nhóm đề tài nhanh KHCN 02-07 “Hoàn thiện công nghệ sản xuất thuốc trừ sâu sinh học Bacillus thuringiensis…” của Chương trình Công nghệ sinh học nhà nước 1996 – 1998 và KHCN 02-07B (1999-2000) lần đầu tiên ở Việt Nam đã sản xuất được chế phẩm Bt dạng bột thấm ướt (wetable powder). Trên nền chất bột kỹ thuật đó, các công thức phối trộn đã được thực hiện. Các chế phẩm đã hoàn thiện hơn và điều tiến bộ nhất là đã tiêu chuẩn hoá được chế phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế. Hai chế phẩm mang nhãn hiệu BioBact WP dạng bột có hoạt lực 16000 IU/mg và BioBact EC dạng sữa có hoạt tính 4000 IU/ml được sản xuất. Chế phẩm Bt thế hệ mới Một trong những hạn chế của thuốc trừ sâu sinh học là tính tác động chọn lọc của nó, nghĩa là mỗi một gen mã hoá một protein độc tố diệt sâu nhất định nào đó. Vì vậy muốn có một chế phẩm trừ được nhiều loại sâu thì chủng sản xuất phải chứa một tổ hợp gen mã hóa các protein diệt sâu. Đề tài khoa học cơ bản mã số 82 09 04 “Biểu hiện gen mã hóa protein tinh thể Cry1C diệt côn trùng trong chủng Bacillus thuringiensis 51 không sinh tinh thể” và đề tài nhánh của KC04-12 (2001 – 2004) đã tạo được chủng Bt mới (chủng Bt tái tổ hợp – Btk-28) có hoạt lực diệt sâu rộng hơn, nghĩa là chủng kurstaki trước đây chỉ diệt được sâu tơ, nay được kết hợp thêm một gen cry1C diệt sâu khoang (một loài sâu hại lớn trong nông nghiệp). Như vậy chế phẩm sản xuất bằng chủng Btk-28 này có hoạt phổ diệt sâu rộng hơn, mạnh hơn. Những kết quả này đă góp phần cho đề tài KC04-12 được công nhận là đề tài xuất sắc, được tặng bằng khen của Bộ Khoa học và Công nghệ năm 2005 và được Hội KHKT Việt Nam tặng giải thưởng Vipesco năm 2009. Chế phẩm Bt diệt bọ gậy Từ các nghiên cứu cơ bản chọn chủng giống có hoạt tính diệt côn trùng cao, các nhà khoa học đã tìm ra được những chủng diệt ấu trùng muỗi (bọ gậy) rất mạnh tại Việt Nam. Dự án “Sản xuất thử chế phẩm diệt muỗi” năm 2007 do Viện Khoa học Việt Nam cấp quản lí đã sản xuất được chế phẩm diệt muỗi dạng dịch thể và đặc biệt là dạng bánh tan chậm. Chế phẩm dạng bánh lõi ngô tan chậm đã cho hiệu quả diệt bọ gậy rất cao (100% trên hiện trường) và hiệu quả diệt bọ gậy kéo dài sau 4 tháng đạt từ 90 – 100%. Bánh lõi ngô diệt bọ gậy là chế phẩm đã được Cục Sáng chế phát minh chấp nhận đăng công báo. Các kết quả đánh giá hiệu quả diệt bọ gậy của chế phẩm cho thấy chế phẩm sinh học diệt bọ gậy sản xuất tại Việt Nam có hiệu quả rất cao trong phòng thí nghiệm và trên thực địa. Đây là chế phẩm dạng rắn, do vậy nó sẽ có nhiều ưu điểm như khả năng bảo quản, vận chuyển, dễ sử dụng, có tính ổn định và phân giải đều. Vì vậy cần được sản xuất công nghiệp và sử dụng trong công tác y tế dự phòng nhằm thay thế các thuốc hóa học trong cuộc chiến chống lại các loài muỗi và các căn bệnh nguy hiểm do muỗi truyền, bảo vệ sức khỏe nhân dân và bảo vệ môi trường. [...] Read more...
Vai trò mới của RNA can thiệp trong quá trình nhân đôi của nhiễm sắc thể
Vai trò mới của RNA can thiệp trong quá trình nhân đôi của nhiễm sắc thể2 Tháng Tư, 2018Trong cùng thời điểm nhân đôi của DNA trong tế bào, một phần ba DNA sẽ được nén vào các cấu trúc lặp được gọi là dị nhiễm sắc (heterochromatin) Cấu trúc đặc này có vai trò nén hoặc làm bất hoạt các trình tự DNA bên trong – có thể tháo giãn genome nếu được kích hoạt – cũng như điều hòa các hoạt động các gen gần kề. Khi tế bào phân chia, các tế bào con không chỉ thừa kế một bản sao DNA của tế bào mẹ, mà còn cả cách thức chích xác về việc DNA được đóng gói vào chất dị nhiễm sắc. Mô hình di truyền “ngoại tố di truyền này (epigenetic)” này – thông tin không chỉ được truyền qua mã di truyền mà còn cả cách thức chúng được đóng gói – được nghiên cứu bởi Cold Spring Harbor Laboratory Professor và HHMI-GBMF Investigator Rob Martienssen. Nghiên cứu này được đánh giá là một đột phá khoa học của năm 2002 trên tạp chí Science. Martienssen và đồng nghiệp chỉ ra rằng sự di truyền cấu trúc dị nhiễm sắc phụ thuộc vào tổ hợp các cơ chế mở rộng thực hiện bởi RNA can thiệp (RNA interference, RNAi). Trong một nghiên cứu mới đăng trên tạp chí Nature, nhóm của Gs. Martienssen, bao gồm các nhà nghiên cứu từ viện Pasteur Institut ở Paris và Đại học Salamanca ở Tây Ban Nha, mô tả vai trò mới của RNAi, trong đó có vai trò giúp quá trình sao chép DNA diễn ra suôn sẻ mà không gây ra sự tách hủy DNA. DNA thường cuốn quanh các protein được gọi là histone, khi có các chỉnh sửa về hóa tính ở các vùng đặc trưng, kết tụ lại và hình thành dạng dị nhiễm sắc. Martienssen và đồng nghiệp trước kia đã phát hiện ra RNAi tham gia chỉ dẫn quá trình chỉnh sửa này ở histone, xảy ra đồng thời trong chu kỳ tế bào khi DNA đang sao chép. Hình: RNA can thiệp và sự hình thành cấu trúc dị nhiễm sắc. ((1) Trình tự base DNA được đọc, và RNA sợi đôi được hình thành; (2) RNA sợi đôi được tách thành các đoạn ngắn hơn, và quay lại gắn với protein hình thành dạng phức hợp; (3). Phức hợp này trở về nơi RNA sợi đôi hình thành, và gắn phối hợp với RNA đang được phiên mã. Phức hợp này hấp dẫn methylase Clr4 và protein HP1 để tạo nên cấu trúc dị nhiễm sắc) Trong quá trình này của RNAi, một enzyme được gọi là polymerase sao chép hoặc “dịch nghĩa” các vùng của DNA sang phân tử RNA, và theo cách nào đó quá trình này chỉnh sửa các histone ở các vùng cụ thể này, và theo cách đó đã hình thành cấu trúc dị nhiễm sắc. Tuy nhiên các vùng dị nhiễm sắc này hoạt động luân phiên với “các vùng sao chép” – các vị trí trên DNA được các protein gắn, tháo xoắn phân tử DNA sợi đôi để hình thành chạc (fork) sao chép, và bắt đầu tổng hợp một chuỗi DNA mới. Trật tự xen kẽ của các vùng này được chuyển thành cấu trúc dị nhiễm sắc, và các vùng giữ vai trò là vùng khởi đầu sao mã DNA đưa ra một câu hỏi mới: làm thế nào cơ chế phiên mã và sao mã diễn ra tuần tự mà không chồng lấn vào nhau và do đó tổ chức thành chạc sao chép và phá vỡ DNA? Trong một nghiên cứu gần đây, Martienssen hợp tác với các nhà khoa học ở Đại học California ở Berkeley và đã phát hiện ra các protein tham gia tổng hợp DNA có thể đóng gói thành các histone-protein sửa chữa và kéo chúng dọc theo chạc sao chép. Gs. Martienssen nói: “Phát hiện này đặt ra một câu hỏi về vai trò thực sự của RNAi trong quá trình sao chép diễn ra trong chu kỳ tế bào. Câu trả lời cho hai câu hỏi trên đã trở nên đơn giản và thú vị” Nhóm nghiên cứu thực hiện các thí nghiệm đối với quá trình sinh sản của nấm men – một mô hình đơn giản để nghiên cứu cấu trúc dị nhiễm sắc, cho thấy rằng khi enzyme polymarase II phiên mã dọc chiều dài DNA để tạo ra RNA, hoạt động của RNAi làm enzyme này giải phóng khỏi sợi DNA. Điều này cho phép chạc sao chép mở ra suôn sẻ và các sợi DNA được sao chép theo cơ chế sao mã. Các protein sửa chữa – histone cũng hoạt động sau đó sẽ hình thành nên cấu trúc dị nhiễm sắc. Các nhà khoa học phát hiện thấy rằng sự sai hỏng hoặc sự vắng mặt của RNAi đều ngăn trở quá trình sao mã, gây ra dấu hiệu của sự phá hủy DNA bên trong tế bào. Đó là lúc một cơ chế sửa chữa được gọi là tái tổ hợp đồng dạng (homologous recombination) được kích hoạt và sửa chữa các chạc sao chép, nhưng khả năng chỉnh sửa các histone bị mất. Theo Martienssen, “các thí nghiệm này cho thấy vai trò thật sự của RNAi trong suổt quá trình sao mã ở tế bào, bảo vệ tế bào khỏi sự phá vỡ mô hình các chạc sao chép”. [...] Read more...
Danh mục các đề tài cấp Bộ của Khoa Sinh – Môi trường
Danh mục các đề tài cấp Bộ của Khoa Sinh – Môi trường22 Tháng Ba, 2018TÊN ĐỀ TÀI CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI THÀNH VIÊN THAM GIA MÃ SỐ NĂM Nghiên cứu cơ sở khoa học và đề xuất giải pháp sử dụng động vật hai mảnh vỏ để giám sát ô nhiễm kim loại nặng ở các cửa sông ThS. Nguyễn Văn Khánh TS. Võ Văn Minh TS. Phạm Thị Hồng Hà TS. Lê Trọng Sơn PGS. TS. Lê Tự Hải B2012- 2012 Nghiên cứu nhân giống cây ba kích (Morinda officinalis How ) bằng kỹ thuật nuôi cấy in vitro ThS. Võ Châu Tuấn ThS. Trương Thị Thanh Mai B2010-ĐN03-47 2011 Nghiên cứu thiết kế bể lọc thực vật xử lý nước cấp quy mô hộ gia đình nông thôn TS. Võ Văn Minh ThS. Nguyễn Văn Khánh B2009-3-36 2010 Nghiên cứu ứng dụng Hệ thống quan trắc sinh học BMWPVIET (Biological Monitoring Working Party) giám sát chất lượng môi trường nước sông ở thành phố Đà Nẵng ThS. Nguyễn Văn Khánh ThS. Trần Ngọc Sơn B2009-ĐN-09-37 2010 Nghiên cứu cơ cấu phân bón để tăng cường khả năng chịu hạn và chịu nhiệt độ cao của cây vừng TS. Nguyễn Tấn Lê   B2008-ĐN03-32 2009 Nghiên cứu triển khai mô hình trồng rau sạch bằng kĩ thuật thủy canh theo qui mô hộ gia đình tại Đà Nẵng ThS. Đỗ Thị Trường   B2008-ĐN03-31 2009 Nghiên cứu biên soạn chương trình, tài liệu hướng dẫn giáo dục bảo vệ môi trường cho giáo viên Bậc Tiểu học khu vực Nam Trung Bộ PGS.TS. ĐInh Thị Phương Anh   B2006-DN03-03-MT 2008 Nghiên cứu ảnh hưởng của một số điều kiện nuôi cấy đến khả năng tích lũy sinh khối tế bào cây nghệ đen trong nuôi cấy tế bào huyền phù ThS. Võ Châu Tuấn. ThS. Trương Thị Thanh Mai. B2007-ĐN03-19 2008 Nghiên cứu sự đa dạng của khu hệ sinh vật đất và ứng dụng tại Thành phố Đà Nẵng TS. Đỗ Thu Hà   B2007 – ĐN03 – 18 2008 Nghiên cứu đa dạng sinh học xã Hòa Bắc, Hòa Vang thành phố Đà Nẵng PGS.TS. ĐInh Thị Phương Anh   B2005-16-36 2007 Nghiên cứu khả năng hấp thụ một số KLN trong đất bằng cỏ Vetiver TS. Võ Văn Minh ThS. Võ Châu Tuấn ThS. Nguyễn Văn Khánh B2006-ĐN-03-03 2007 Tổng hợp phức chất vi lượng đất hiếm và thử nghiệm làm chất kích thích sinh trưởng cho cây vừng trồng tại huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng Phạm Văn Hai TS. Nguyễn Tấn Lê B2006-ĐN01-01 2007 Nghiên cứu đa dạng sinh học khu rừng đặc dụng Nam Hải Vân thành phố Đà Nẵng PGS.TS. ĐInh Thị Phương Anh   NCCB.61.19.02 2005 Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất có hoạt tính sinh học trong nước dừa đến đời sống cây vừng ở vụ hè, trồng tại Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng TS. Nguyễn Tấn Lê   B2004-16-28 2005 Định hướng chiến lược phát triển ngành nghề đào tạo của trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng trong giai đoạn 2001-2005 TS. Nguyễn Tấn Lê   B2001-16-11 2002 Nghiên cứu đa dạng sinh học khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà – Núi Chúa PGS.TS. ĐInh Thị Phương Anh   NCCB.61.06.01 2002 Giáo dục bảo vệ môi trường thông qua môn học ở Đại học Đà Nẵng Hoàng Lan Phương PGS.TS. Đinh Thị Phương Anh B2000-HI-16-TD 2002 Nghiên cứu tài nguyên sinh vật rừng, đề xuất phương hướng bảo tồn và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên sinh vật ở xã Hòa Ninh – Hòa Vang – TP Đà Nẵng PGS.TS. ĐInh Thị Phương Anh   B99.16.16 2001 [...] Read more...
Danh mục các đề tài cấp cơ sở của Khoa Sinh – Môi trường
Danh mục các đề tài cấp cơ sở của Khoa Sinh – Môi trường22 Tháng Ba, 2018TÊN ĐỀ TÀI CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI THÀNH VIÊN THAM GIA MÃ SỐ NĂM Nghiên cứu một số tiêu chí để làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng mô hình nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ven biển Quảng Nam – Đà Nẵng TS. Võ Văn Minh ThS. Nguyễn Văn Khánh ThS. Đoạn Chí Cường Đ2011-03-08 2011 Xây dựng mô hình trồng rau sạch trong nhà bằng phương pháp thủy canh hồi lưu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng TS. Võ Văn Minh ThS. Nguyễn Văn Khánh LMHTX-2011 2011 Nghiên cứu khả năng giám sát ô nhiễm Cd và Pb trong trầm tích tại khu vực Vũng Thùng – Đà Nẵng bằng động vật hai mảnh vỏ Th.S Nguyễn Văn Khánh ThS. Cáp Kim Cương ThS. Trần Ngọc Sơn            Đ2011-03-09 2011 Tối ưu hóa điều kiện nuôi cấy và khảo sát sự tích lũy một số hoạt chất sinh học của tế bào cây nghệ đen trọng hệ lên men 10 lít ThS. Võ Châu Tuấn ThS. Hoàng Tấn Quảng ĐH-2010 2010 Biên soạn ngân hàng câu hỏi thi kết thúc một số học phần thuộc bộ môn Khoa học Môi trường quản lý TS. Võ Văn Minh ThS. Phùng Khánh Chuyên T2010-35 2010 Nghiên cứu ảnh hưởng của nguồn carbon đến sự tích luỹ sinh khối tế bào huyền phù cây nghệ đen (Curcuma zedoaria Roscoe) ThS. Võ Châu Tuấn CN. Đoàn Hữu Nhật Bình ĐH-2009 2009 Nghiên cứu ứng dụng Hệ thống BMWPVIET (Biologycal Monioring Working Parrty) để đánh giá chất lượng nước bề mặt ở cánh đồng Xuân Thiều, Phường Hòa Hiệp, Quận Liên Chiểu, Thành phố Đà Nẵng ThS. Nguyễn Văn Khánh TS. Võ Văn Minh ThS. Phùng Khánh Chuyên T2007-03-19 2007 Sơ bộ nghiên cứu các chủng vi sinh vật có khả năng sinh xenlulaza và chất kháng sinh chống nấm tại một số vùng của Khu BTTN Bà Nà – Núi Chúa – Thành phố Đà Nẵng TS. Đỗ Thu Hà   T04– 16 -65 2006 Bước đầu thử nghiệm ảnh hưởng một số môi trường dinh dưỡng đến sự sinh trưởng, phát triển ,năng suât và phẩm chất của rau cải xanh tại tp Đà Nẵng bằng kĩ thuật thuỷ canh đơn giản ThS. Đỗ Thị Trường   T-03-14 2005 Nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm EM và EM phối hợp với Zn đến một số chỉ tiêu sinh trưởng, sinh lí, năng suất và phẩm chất của cây cà chua tại thành phố Đà Nẵng. Chủ nhiệm: Đỗ Thị Trường. Mã số: ThS. Đỗ Thị Trường   T04-15-61 2004 Nghiên cứu tuyển chọn một số chủng vi khuẩn, xạ khuẩn ưa nhiệt có khả năng phân hủy cellulose cao trong đất tại một số địa điểm ở thành phố Đà Nẵng ThS. Võ Châu Tuấn   T02-16-41 2004 Nghiên cứu hiện trạng môi trường, dự báo xu thế diễn biến và đề xuất các giải pháp cải thiện môi trường ở một số làng nghề tỉnh Quảng Nam TS. Võ Văn Minh   T03-16-58 2003 Xây dựng giáo trình điện tử môn Động vật có xương sống PGS.TS. Đinh Thị Phương Anh   T01-16-24 2003 Xây dựng giáo trình điện tử môn Giải phẫu hình thái học thực vật TS. Đỗ Thu Hà   T1 – 16 -28 2002 Xây dựng giáo trình điện tử môn sinh lí thực vật ThS. Đỗ Thị Trường   T01-16-27 2001 Nghiên cứu đa dạng sinh học khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng TS. Đinh Thị Phương Anh Nguyễn Tấn Lê Đặng Quốc Hòe Nguyễn Thị Đào QNĐN-1996 1998 Nghiên cứu một số chủng xạ khuẩn sinh kháng sinh chống nấm nhóm polyen phân lập từ đất Quảng Nam – Đà Nẵng TS. Đỗ Thu Hà   T98 – 16 – 07 1998 Điều tra thành phần loài Vi khuẩn lam trên đất trồng lúa ở Huyện Hoà Vang-thành phố Đà Nẵng ThS. Đỗ Thị Trường   T97-16-12 1997 Bước đầu tìm hiểu hiện trạng hệ sinh thái tự nhiên vùng Dung Quất – Dự báo các nhân tố ảnh hưởng đến hệ sinh thái ven biển TS. Đinh Thị Phương Anh   D96-03-05 1997 Xây dựng chương trình đào tạo cử nhân Sinh – Môi trường TS. Đinh Thị Phương Anh   T96-16-08 1997 Nghiên cứu nội dung và phương pháp đưa giáo dục môi trường địa phương vào giảng dạy qua các môn học ở bậc phổ thông cho học sinh tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng Bùi Công Minh TS. Nguyễn Tấn Lê QNĐN-1995 1996 Điều tra thực trạng và dự báo hướng đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ giáo viên cho tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng Trương Đình Nam Nguyễn Tấn Lê Phạm Văn Hai QNĐN-1993 1994 [...] Read more...

KHUNG CHƯƠNG TRÌNH VÀ KẾ HOẠCH ĐÀO TẠO

No content has been found here, sorry 🙂

THỜI KHÓA BIỂU

No content has been found here, sorry 🙂

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT

No content has been found here, sorry 🙂

CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN

No content has been found here, sorry 🙂